(Nguyễn Du, Truyện Kiều, dẫn theo SGK Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2017, trang 94)
BÀI LÀM
Khi kể về những tác giả, tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học trung đại Việt Nam, chúng ta không thể nào không nói đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cùng tác phẩm Truyện Kiều của ông. Với những kiến thức uyên thâm của mình cùng tài năng văn học xuất chúng, ông đã sáng tác ra tác phẩm có giá trị bằng chữ Nôm và chữ Hán. Trong đó nổi bật lên tác phẩm Truyện Kiều.
Dù đã trải qua gần hai thế kỉ kể từ khi được sáng tác nhưng “Truyện Kiều” của Nguyễn Du vẫn là một tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt với đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Không chỉ là một kiệt tác xếp vào hàng kinh điển của văn học nước nhà mà đây còn là một tác phẩm được đón nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nguyễn Du là một danh nhân văn hoá, một đại thì hào của dân tộc ta. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc thuộc truyện Kiều của Nguyễn Du”. Qua đoạn trích trên, người đọc thấy được nỗi cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thuý Kiều. Đặc biệt 8 câu thơ cuối, có thể được coi là đỉnh cao trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du. Bốn cặp thơ lục bát không chỉ cho thấy được đau đớn, cô đơn tột cùng của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở chốn lầu Ngưng Bích mà còn mang những dự cảm về một tương lai sóng gió, gập ghềnh:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông, gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Đọc 8 câu thơ cuối, ta thấy được điệp từ “Buồn trông” được lặp lại bốn lần. Nhấn mạnh nỗi buồn càng lúc càng dâng trào cùng cảnh vật, càng lúc càng mênh mang, vắng lặng.
Cảnh đầu tiên mà Kiều trông là cảnh cửa bể lúc chiều hôm:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Cứ mỗi buổi chiều lại, cảnh vật dần trở nên yên ắng, vắng lặng, mang đến một không gian buồn thiu. Trái ngược với buổi sáng bình minh bắt đầu mới mẻ, thì chiều tà lại là sự kết thúc của một ngày dài. Không gian mênh mông rợn ngợp và thời gian khi chiều tà từ muôn thuở luôn gợi nỗi buồn trống vắng bơ vơ.
Trong ca dao, thơ ca, thời điểm chiều tà là thời điểm dễ khiến con người buồn, như câu “Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều... Giữa khung cảnh ấy cánh buồm “thấp thoáng” vô định hiện hữu như một ảo ảnh. Hình ảnh cánh buồm dễ khiến ta liên tưởng đến những chuyến đò ngược xuôi về bến bờ của quê hương xứ sở. Cảnh đã gợi trong lòng người tha hương nỗi nhớ buồn về cha mẹ, quê nhà cách xa, nỗi cô đơn và khát khao sum họp.
Dù đi đâu, làm gì thì gia đình, quê hương vẫn là nơi chào đón chúng ta trở về sau những năm tháng lăn lội ngoài kia, nơi mang đến những yên bình, những tình thương chân thật nhất. Thế nhưng, đối với Kiều, khao khát được trở về nhà có lẽ là điều xa lạ.
Bị giam cầm tại lầu Ngưng Bích, Kiều đã nhớ về Kim Trọng, nhớ về gia đình. Thế nhưng sau tất cả nỗi nhớ khắc khoải, da diết hướng đến người thân, Kiều đã quay trở về với thực tại để đối diện với bi kịch của bản thân. Hình ảnh cánh buồm đơn độc, trơ trọi nơi cửa bể không chỉ tô đậm cái lạnh lẽo, mênh mông đến rợn ngợp của không gian mà còn thể hiện nỗi nhớ nhà và cảnh đời lưu lạc của nàng Kiều.
Với một không gian rộng lớn như vậy, nhưng
chỉ có bóng con thuyền và cánh buồm thấp thoáng, càng khiến không gian trở nên mênh mông, cô quạnh, không một bóng người.
Với nghệ thuật đảo ngữ thấp thoáng lên trước, cùng từ láy xa xa làm tăng thêm cảm giác xa xôi, nhỏ bé của con thuyền, tăng cảm giác cô độc của nhân vật.
Kiều nhìn ra cửa bể nhớ về gia đình, quê hương, rồi nàng lại buồn vì không biết số phận của mình rồi sẽ đi về đâu:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Từ xa xưa, hoa được ví như một vẻ đẹp của người phụ nữ, thể hiện sự nâng niu, che chở, thế nhưng trong câu thơ của Nguyễn Du, hình ảnh “Hoa trôi man mác” trên mặt nước mênh mông gợi ra sự nhỏ bé, lạc lõng, mất phương hướng của nàng Kiều giữa dòng đời rộng lớn, nơi tiềm ẩn bao bất trắc, tai họa. Hình ảnh hoa trôi còn diễn tả tâm trạng đau khổ, buồn tủi và những dự cảm về tương lai bất định, không biết đi đâu, về đâu của Kiều. Câu hỏi tu từ “Hoa trôi man mác biết là về đâu?” càng tô đậm nỗi cô đơn, tuyệt vọng và sự bế tắc đến cùng cực của Thúy Kiều. Kiều không biết số phận của mình rồi sẽ như thế nào. Thật đáng buồn khi bản thân lại không thể quyết định được chính tương lai của mình.
Với hình ảnh ẩn dụ: hoa trôi trên dòng nước ẩn dụ cho thân phận người con gái chìm nổi trên dòng đời. Kiều nhìn cánh hoa trôi mà cảm thương cho số phận chìm nổi lênh đênh của mình. Một vài câu ca dao cũng nói lên số phận người phụ nữ như Kiều: Thân em như thể bèo trôi/ Sóng dập gió dồi biết tựa vào đâu; Thân em như thể cánh bèo/ Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi…Cánh hoa, cánh bèo, cánh lục bình… đều ẩn dụ cho sự mong manh, yếu đuối, không thể tự định đoạt của thân phận người con gái trong xã hội phong kiến. Sóng, dòng nước ẩn dụ cho cuộc đời.
Cảnh làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cánh hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày thanh minh: “cỏ non xanh rợn chân trời” là sắc cỏ “rầu rầu” – một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải là màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa hèn của Thúy Kiều.
Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” và chân mây mặt đất “một màu xanh xanh” càng tô đậm, làm cho khung cảnh trở nên u ám, heo hắt, khung cảnh ấy cũng như như nỗi lòng cô đơn, sự tuyệt vọng nơi Kiều. Kết hợp với từ láy “rầu rầu” gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương, màu xanh tàn úa, héo hắt.
Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc.
Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và “ầm ầm tiếng sóng” trong câu thơ cuối khắc họa rõ nét mà cũng ám ảnh nhất về những sóng gió, tai ương bất trắc trong tương lai, chân mây mặt đất rộng lớn là vậy nhưng chỉ có một màu xanh đơn bạc, không chút sự sống. Âm thanh dữ dội của sóng ngoài tự nhiên như một điềm báo không lành về tương lai sóng gió, trắc trở của nàng “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Tám câu thơ cuối nhà thơ tập trung miêu tả khung cảnh thiên nhiên của lầu Ngưng Bích thế nhưng qua đó lại làm nổi bật lên bức tranh tâm cảnh đầy xót xa, đau đớn của một kiếp bạc mệnh.
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Buồn trông ngọn nước mới sa
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
“Buồn trông” là nhìn xa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời. Điệp ngữ kết hợp với những hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. “Buồn trông” trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tứ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút, với bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết, được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Âm hưởng của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang đọng mãi trong tâm trí người đọc. Bút pháp tả cảnh ngụ tình là một bút pháp nghệ thuật tinh tế và đặc sắc. Phải có sự đồng cảm đến tri âm tri kỉ với nhân vật trữ tình mới có thể đạt đến độ chín của bút pháp. Và bởi vậy, với việc vận dựng thành công thủ pháp nghệ thuật này trong việc diễn tả tâm trạng “Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích” Nguyễn Du đã bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm, đa đoan và một tâm hồn nhân ái đến tuyệt vời.
Tham khảo từ khóa tìm kiếm bài viết từ google:
Cảm nhận về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất
Cảm nhận của em về Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Nhận xét về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có ý kiến cho rằng ngòi bút
Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích 8 câu cuối
viết đoạn văn cảm nhận 6 câu thơ đầu đoạn trích "kiều ở lầu ngưng bích"
Đoạn văn cảm nhận về Kiều ở lầu Ngưng Bích
Cảm nhận về 14 câu thơ đầu bài Kiều ở lầu Ngưng Bích
Tôi là Trần Lai hiện đang là Co-Founder của Gia Sư Minh Trí. Trong blog của mình tôi chia sẻ các phương pháp học tập hiệu quả, các bài văn hay, thông tin về tác giả, tác phẩm để quý thầy cô, quý phụ huynh và các em học sinh tham khảo. Hi vọng sẽ giúp ích cho quý độc giả